Lời biên tập viên:
Ông Đào Tam Tỉnh - nguyên Giám đốc Thư viện Nghệ An, một nhà nghiên cứu văn hóa, lịch sử có uy tín tại Nghệ
An. Bài viết này đã được đăng trên Tạp chí Khoa học Công
nghệ, Công thông tin Dòng họ Trần Nguyên Hãn (http://www.donghotrannguyenhan.com.vn/), Blog Họ Cao Trần (http://hocaotran.blogspot.com/). Biên tập viên xin phép đăng lại bài này trên Blog dòng họ Trần làng Long Đống
1.
Trần Nguyên Hãn, Trần Quốc Duy và dòng họ Trần xứ Nghệ
Theo
Gia phả họ Trần ở Diễn Châu, Yên Thành và hồ sơ xin xếp hạng di tích
đền thờ Trần Pháp Độ ở làng Đan Trung (xã Diễn Thắng) thì Trần tướng công Pháp
Độ, tức Trần Quốc Duy (1421-1509) là Thái tiên tổ họ Trần Nghệ Tĩnh. Cụ sinh
tại trang Sơn Đông, huyện Lập Thạch, trấn Sơn Tây, xuất thân từ
dòng họ hoàng tộc Trần. Thân phụ là Tả tướng quốc Trần Nguyên Hãn, là công
thần khai quốc triều Lê Sơ, thân mẫu là người họ Lê. Trần Nguyên Hãn
(1390-1429) sinh tại Sơn Đông, Lập Thạch,
là con trai của Ông Trần Án và bà Lê Thị Hoàn, là cháu nội của quan Tư đồ
Trần Nguyên Đán, cháu đời thứ 6 của
Chiêu Minh Vương Trần Quang Khải. Lịch triều hiến chương loại chí của
Phan
Huy Chú có ghi về ông như sau:
“Ông
người ở Lập Thạch dòng dõi Tư đồ Trần Nguyên Đán, có học thức, giỏi binh
pháp. Khi nhà nhuận Hồ mất ngôi, giặc Ngô xâm chiếm nước Nam, trăm họ lầm than,
ông nuôi chí cứu đời giúp dân… Ông vào Thanh
Hóa tìm thấy Thái Tổ, một lòng theo vua. Vua cũng biết tài
lược của ông, đai ngộ rất hậu, cho được dự bàn mưu kín. Ông theo đi đánh dẹp có
công luôn, được lên chức Tư đồ… Năm đầu Thuận Thiên, Mậu Thân (1428), vua đại
hội các quan văn võ, luận công ban thưởng, phong ông làm Tả tướng quốc và cho
họ vua.
Ông
nói riêng với người thân: “Nhà vua có tướng như Việt Vương (vua bên Trung Quốc thời Xuân
Thu chiến quốc) không thể cùng sung sướng được”. Ông xin về hưu, nhà vua cho,
nhưng bảo mỗi năm hai lần về chầu. Ông về làng làm nhà cửa và đóng thuyền chở
binh khí. Có người cáo ông là mưu phản. Vua sai lực sĩ xá nhân bắt về hỏi.
Thuyền đến bến dưới xã Đông Sơn, ông giận uất khấn trời rằng: “Tôi với vua cùng
mưu cứu dân. Nay nghĩa lớn đa định, vua lại muốn giết tôi, hoàng thiên có biết
xin soi xét cho”. Nói xong, bỗng nhiên gió nổi lật thuyền, 42 lực sĩ xá nhân và
ông đều chết đuối cả. Chỉ có hai gia đồng của ông trôi vào bờ dược thoát chết.
Vua xuống chiếu tịch thu tất cả vợ con, ruộng đất, của cải. Triều Nhân Tông năm
Diên Ninh thứ 2 (1455), nhân đại xá, vua thương ông vô tội, xuống chiếu trả lại
ruộng nương, của cải để nêu người có công lao cũ. Sau khi ông chết cũng trở
thành linh dị, dân ở đấy lập đền thờ, hàng năm cầu đảo. Đời nhuận Mạc truy tặng
Tả tướng quốc, Trung liệt Đại vương, nay hương khói chưa tắt”(1).
Theo
gia phả họ Trần cho biết thêm thì Trần Nguyên Hãn đã cho đục thuyền tự
trầm: Trước khi xuống thuyền, ông để lại bà vợ cả và người con trai lớn
trốn đi xa. Thuyền đi qua xã bên cạnh, ông lại cho bà vợ thứ hai và hai người
con trai cùng một số gia nhân lên bờ để đi trốn tránh. Còn lại bà vợ thứ ba
cùng một trai, một gái nhỏ và 42 gia nhân lính hầu giỏi nghề sông nước cùng 7
lính nhà vua theo ông. Thuyền đi đến ngã ba sông Lô và sông Phó Đáy, ông ngửa
mặt kêu trời… rồi tự trầm… Thuyền đi ra giữa đêm và đánh đắm vào lúc một hai
giờ sáng [vào ngày 26/2/năm Kỷ Dậu 1429]… Nói chết cả là cũng để
che mắt nhà vua!(2).
Đấy là lý do mà Trần Quốc Duy (mới 9 tuổi [theo gia phả họ Trần Phúc Thành thì ông mới 5 tuổi?]) cùng mẹ được thoát thân, nhưng sau đó ông bị triều Lê quản thúc cả hai mẹ con ở Tức Mạc, phủ Thiên Trường (Nam Định), trấn Sơn Nam trong 26 năm Sau khi vua Lê Nhân Tông minh oan cho Tướng quốc Trần Nguyên Hãn, Trần Quốc Duy được tự do. Vợ ông là Lê Thị, hiệu Từ Quang, sinh được 3 con: Trần Công Sủng (1467), Trần Đạo Tín (1472), Trần Khương, tự Thiện Tín (1475).
Đấy là lý do mà Trần Quốc Duy (mới 9 tuổi [theo gia phả họ Trần Phúc Thành thì ông mới 5 tuổi?]) cùng mẹ được thoát thân, nhưng sau đó ông bị triều Lê quản thúc cả hai mẹ con ở Tức Mạc, phủ Thiên Trường (Nam Định), trấn Sơn Nam trong 26 năm Sau khi vua Lê Nhân Tông minh oan cho Tướng quốc Trần Nguyên Hãn, Trần Quốc Duy được tự do. Vợ ông là Lê Thị, hiệu Từ Quang, sinh được 3 con: Trần Công Sủng (1467), Trần Đạo Tín (1472), Trần Khương, tự Thiện Tín (1475).
Năm
1463, đời Lê Thánh Tông, Trần Quốc Duy có dự và đậu thi Hội (điều này chứng tỏ
Ông đã đi thi Hương đậu Hương cống). Về sau, ông đưa vợ con về ở tại Biện Sơn, Thanh Hóa, rồi để vợ cùng người con
trưởng và thứ 2 cho lưu trú tại đấy, còn ông cùng con trai thứ 3 “tái vãng Nghệ An” (1504).
Ông
định cư ở xã Thái Xá, tổng Quan Trung, phủ Diễn Châu và vào trụ trì ở chùa Phù Cam
(hay Liên Hoa), lấy tự là Pháp Độ. Ông “tuân hành nội đạo và dạy học”, trông
coi xây dựng lại chùa Phù Cam làm nơi tu hành tĩnh dưỡng tuổi già, đồng thời
cùng với hai người họ Phạm - Nguyễn, chiêu dân lập ấp, khai phá ra các xứ đồng
cày cấy, mở mang dân trí, xây dựng nên các làng, như: Phú Điền, Tường Lai, Thái
Xá, ấp Trần Xá…(3).
Trần
Quốc Duy đã cùng một số vị họ Phạm tổ chức việc chiêu dân, khai hoang, lập ấp,
trung tâm khai phá là xứ Nương Mao, là nơi hoang vắng, sông nước, chỉ có một
xóm nhỏ tục gọi là Kẻ Dìn, ở phía tây Phú Hữu, mở mang ra các làng mới. Các
làng mới như Phúc Điền, sau đổi là Phú Điền (nay là Trung Hậu, xã Nhân Thành),
rồi Phú Lai, Tường Lai, Mã Lai. Ông là người chủ trì việc khai hoang, lập ấp,
hướng dẫn nhân dân việc khai thông thủy lợi, mở mang đường thủy, đánh bắt thủy
sản, làm nghề nông trồng trọt, chăn nuôi, lại quyên góp tiền của cứu trợ người
nghèo, nên về sau được nhân dân kính trọng thờ làm Thành Hoàng (thần khai
canh).
Các triều đại đều có sắc phong thần cho ông,
nay chỉ còn giữ được đạo thời Khải Định thứ 2 và phong tới Trung đẳng thần, nội
dung sắc: Nghệ
An tỉnh, Yên Thành huyện, Thái Xá xã, Phú Hữu
thôn phụng sự Bản cảnh Sơn Nam hách trạc Pháp Độ chi thần, hộ quốc, tý dân trứ
linh ứng tứ kim lịch thừa. Niệm thần hưu trước phong vi tủng bạt dực bảo Trung
hưng Trung đẳng thần chuẩn sự thứ cơ thần kỳ tướng hữu bảo ngã lê dân. Khâm
tai!
Cụ
tổ Pháp Độ là người có tri thức, từng đậu đạt khoa bảng thi Hương, thi Hội, nên
rất chú trọng việc nâng cao dân trí, phát triển văn hóa giáo dục,
nên quê hương mới ngày càng văn minh, giàu mạnh. Ngài mời thầy mở trường dạy
học cho con cháu và dân làng, nên có nhiều lớp hậu sinh thi cử đậu đạt từ Hiệu sinh (Tú tài), Hương cống (Cử nhân), được dự học ở Quốc Tử Giám và đỗ đại khoa
thi Hội, thi Đình. Họ được cử chọn làm quan, góp phần to lớn cho sự nghiệp bảo
vệ, xây dựng và phát triển quê hương, đất nước. Thành quả đó được ghi rõ trong
sử sách, địa chí địa phương: Thời Lê, ở Phù Cam có 3 Hương cống, 2 Sinh đồ; Phú
Hữu có 4 Hương cống, 11 Hiệu sinh; Phú Điền có 1 Tiến sĩ, 3 Cử nhân, 19 Tú tài.
Con
trai Pháp Độ là Thiện Tính làm nhà ở xứ Cồn Dầu, làng Phú Hữu, sinh ra trai
trưởng là Trần Chân Tịch, tự Phúc Quảng (ở lại làng Dàn, xã Đông Tháp), thứ là
Trần Chân Tính, tự Huyền Thông (ở làng Hoàng Mai, xã Bàng Hoa, rồi trại Đầm
Trang, Mai Nữ, Yên Hậu) và con út là Trần Chân Thiên, tự Huyền Linh (đến làng
Mõ, xã Giai Lạc). Từ đây, dòng dõi của Pháp Độ sinh sôi, phát tích đông đúc,
trải qua 20 đời đã có tới hơn 200 chi, trải rộng khắp cả Bắc, Trung Kỳ, ra cả
nước và nước ngoài. Phúc Quảng và Huyền Thông ở lại Phú Hữu sinh ra con cháu
đông đúc. Con cháu nổi lên có Bạt Kinh thi đỗ Tam tràng, làm quan tới Thái bộc
Tự khanh; kế đó có 4 Hương cống, 16 Hiệu sinh; đến triều Nguyễn có Trần Văn Lập
đỗ Tú tài, con là Thời được Cửu phẩm văn giai; một phái ở làng Đệ Nhất (xã Diễn
Hồng); một chi ở Thái Hậu (Diễn Tháp) và một ở Đan Trung (xã Diễn Thắng) đều
thịnh vượng…Con út Huyền Linh là thầy địa lý giỏi, chọn được phúc địa ở Cồn
Chu, hợp thiên mộ cha mẹ, rồi dời nhà lên ở làng Diệu Ốc, xã Yên Lạc (nay là xã
Phúc Thành), con cháu kế phát thành một họ lớn, có nhiều công hầu, khanh tướng…
Đặc
biệt chi phái này kể từ Phú Quận công ở đời Lê Trang Tông đến vua Lê ChiêuThống, trải hơn 200 năm có tới 35 văn khoa, 32 võ khoa, 1 Giải nguyên, Hoành từ
(tương đương Tiến sĩ), 4 Hương cống, 7 Hiệu sinh, 2 Quận công, 16 tước hầu, 3
tước bá, 2 tước tử, 3 tước nam. Triều Nguyễn có 1 Cử nhân, 4 Tú tài, 1 Vệ úy
lĩnh suất đội. Từ phái hệ này lại phát tích ra nhiều chi rất thịnh vượng: Diên
Lãm, Sa Nam (Nam Đàn); Yên Nhân (Yên Thành); Kim Khê, Đông Chử, Hải
Thanh, Yên Lng, tổng Vân Trình, Đồng Quan (Nghi Lộc); Ngọc Thành, tổng Quan
Trung và Yên Duệ; Đức Nhuận, Thọ Sơn, xã Yên Lãng (Thanh Chương) ; Đồng Cường
(Hương Sơn, Hà Tĩnh); Yên Thịnh, xã Yên Trung; thôn Thượng, Thái Lăng (ĐứcThọ); Mặc Tảo, tổng Hoàng Trường, Vạn Phần (Diễn Châu); Quỳnh Tụ, Xuân Lạng (Quỳnh Lưu); Thuần Hậu, Thuần Trung, Hoành Sơn (Lương Sơn: Anh Sơn, Đô Lương)…
2.
Các nhân vật tiêu biểu con cháu của Trần Quốc Duy - Pháp Độ
Trần
Thọ (1544-1613), con trai của Trần Chân Thiên - Huyền Linh. Ông phương phi khác
thường, có tri thức văn võ kiêm toàn. Khi Thế tổ Thái Vương Trịnh Kiểm đưa quân
vào trấn Nghệ An, ông xung phong ứng nghĩa, lập nhiều công lao, được phong Phú
Vinh hầu. Lại có công lớn với triều đãnh nên được tấn phong Phú Quận công. Ông
là người làm quan có chức tước lớn, nối tiếp được liệt tổ Tả tướng quốc Trần
Nguyên Hãn và mở đầu cho sự hiển vinh của Dòng họ Trần xứ Nghệ - con cháu của
Pháp Độ.
Trần
Văn Ngạn (1560-1635), con trai của Trần Thọ, được tập ấm điển binh, theo Thành
tổ Triết vương, có nhiều công lao được thăng Tán trị công thần, tước Kiên Lễ
hầu, võ có cháu là công thần nên được vinh phong là Vinh lộc Đại phu Tán trị
Tham chính.
Trần
Tuấn Kiệt, có sức khỏe mạnh ăn, tính thích nghề võ, phối trưởng nữ Nguyễn công.
Tương truyền, nhân ngày tháng chạp đến nhà nhạc thân chơi, ông ăn hết một
nồi 7 cơm, rồi vào rừng đốn củi nhiều gấp 10 lần các tiều phu khác. Ông có thể
vác nổi một con trâu trong một dịp được thách đố và vật đổ một lèo cả 4 đô vật…
Có lần tại Kinh đô Thăng Long, một con voi sổng
chuồng, làm hại nhân dân. Triều đình hạ chiếu cầu dũng sĩ, ai đánh được voi sẽ
thưởng chức hàm. Ông hưởng ứng chiếu, rèn sẵn búa sắt, siềng sắt tâu vua. Vua y
cho. Ông mang búa siềng nhảy lên nóc nhà, khiến người lựa voi đi qua ngã dưới,
ông tức thì nhảy phắt lên đầu voi hãm lại. Voi trở lại bơi sông Nhị Hà (sông Hồng), ông cùng voi khi nổi, khi chìm, hồi lâu voi mới thụ chế. Vua ngự lầu
trông thấy rất mừng, phán khen: “Kỳ tài, đích đáng kỳ tài, con dòng cửa tướng
nảy người kiện nhi”, ban chức Nội điện lang, phụng Phù xa giá thảo tặc (đánh
giặc), có công lao, tặng tước Đông Lĩnh hầu. Sau lại có công bắt được tướng
giặc, gia thăng Đô hiệu kiểm chưởng cấm quân. Ông lại có con là đại thần, nên
được vinh phong là Kim tử vinh lộc Đại phu Tán trị Tham tán, truy tôn thần
công, gia thăng Thái bảo Đông Quận công Dực vận Đại vương. Văn bia ghi về ông
có câu: “Kiêu dũng tuyệt luân cần nghĩa hữu công”, nghĩa là: Sức mạnh khác
thường, có công cần vương hiếu nghĩa. Sau khi mất được lập đền thờ làm Phúc
thần ở Cồn Lội, Ba Khe, phụng chí cấp thuần vĩ, phương tô, vũ kỳ phụng tự (được
ban đất ruộng thu tô để thờ tự).
Ông
cùng Quận phu nhân họ Nguyễn và Chính phu nhân họ Phan sinh hạ được 4 trai, 5
gái. Cả 4 trai đều có công với triều đãnh và được hưởng ấm:
Trưởng
là Đăng Dinh (Quận công);
Thứ
2 là Đăng Nhượng (Thị Đình hầu);
Thứ
3 là Thế Tế (Đặng vũ hầu);
Thứ
4 là Trần Phương (Phương Đình hầu).
Trần
Đăng Dinh (1620- 1691), tên húy là Màn, là trai trưởng của Đông Quận công Trần
Tuấn Kiệt. Sinh mẫu chính phu nhân Phan Thị mất khi ông còn nhỏ tuổi, nên được
đích mẫu họ Nguyễn dưỡng dục. Ông thiên tư đĩnh ngộ khác thường, tài kiêm văn
võ, theo học với Nguyễn Ngũ Phương tiên sinh (thầy dạy học nổi tiếng có nhiều
học trì đậu đạt như Tiến sĩ Hồ Sĩ Dương…). Ông là người thẳng thắn, trung
nghĩa, được Vương Thế tử Trịnh Căn rất nể phục, coi là người phi thường và dùng
làm gia thần. Gặp lúc Thế tử có lỗi, bị giam, ông vẫn trung thành ở lại phụng
dưỡng thuốc thang, không lảng tránh như những kẻ khác. Ông mạnh dạn gặp
Trịnh Vương dâng khải xin cho Thế tử. Chúa xem khải động lòng tha cho Thế tử
được trở lại nhiếp chính. Thế tử cảm động, thường xưng bằng “nghĩa đệ”. Năm
Vĩnh Thọ thứ nhất, đời Lê Thần Tông (1658), ông theo Phù Thế tử về trấn thủ
Nghệ An, có công thảo tặc, được phong Liêm Dũng nam, rồi thăng Thượng bảo Tự
khanh, tước tử. Sách Đại Việt sử ký toàn thư ghi: Năm
Giáp Thìn - Cảnh Trị 2 (1664), tháng 11… Lấy… Thái thường thiếu khanh Liêm Dũng
tử Trần Đăng Doanh làm Thượng bảo Tự khanh vì cớ theo Lý Quốc phủ từng đi đánh
dẹp có công (3-270)(4).
Do
có công hoàn thành sứ mệnh và bày kế hay về thu công, nên ông được tiến cử
giữ/thăng các chức tước: Thượng bảo Tự khanh Liêm Dũng tử (1665); tòng
chinh Cao Bình (Bằng) bắt được Mạc Kính Vũ, phong Quản tả nội thủy cơ (1668);
Thừa Chính sứ Hưng Hóa (1678); trải trấn thủ các nơi Sơn Tây, Sơn Nam, Hải Dương, Yên Quảng đều ổn định chính sự, mùa được, yên lòng dân…
Năm
Nhâm Tuất (1682), Thế tử Trịnh Căn nối ngôi chúa, mộng thấy điềm lành ứng với
ông, nên càng tin dùng ông hơn, tiến cử vua ban chỉ chuẩn phong chức Thị lang
bộ Hộ. Ông thường nêu nghĩa trực trước chúa, khi biết tính chúa ham thích chơi
gà chọi, trăm quan tranh nhau dâng gà hay, ông lên tiếng dữ đánh gà chết ngay,
bọn quyền hành đều phải nín hơi cả. Ông dù thuộc quyền của Vương phủ (phủ
Chúa), nhưng thường khuyên chúa “tôn phù đế thất” (vua Lê).
Năm
Chính Hòa (1683), phụng gia thăng Đặc tấn kim tử vinh lộc Đại phu, Hộ bộ Tả Thị
lang, Liêm Dũng hầu, Trụ quốc Thượng liên. Năm Bính Dần (1686), ông được ban
tước Liêm Quận công. Quý nữ của ông là Ngọc Thiều được chúa cưới làm Chính
cung cho Thế tử; Thị Bích làm cung tôn, phong là Ngọc Cảnh xuân nương. Khi ông
nghỉ hưu, về quê lo việc khẩn hoang, cứu giúp và giáo hóa dân nghèo, đem lại
văn minh cho bản địa.
Năm
Chính Hòa 12 (1691), triều đình lại phải triệu ông trở lại Kinh đô giữ chức
Công bộ Thượng thư. Cùng năm này, ông mất, thọ 72 tuổi, vua rất thương tiếc,
truy tặng Hộ bộ Thượng thư, Thiếu phó, tự thị Trung túc. sai Lễ quan tổ chức di
hài ông về quê, ban 1.500 quan tiền làm lễ an táng tại Yên Thổ - Đồng Nhà Vàng
(sau cải táng xứ Hoa Sen), truy tôn: Liêm dĩnh công thần nhân hậu, uyên mục
cung . anh đoán minh vụ thần công; lại phụng chỉ lập đền thờ quốc tế (võ là
miếu tổ ngoại nhà chúa nên gọi là phủ thờ Liêm Quận công Trần Đăng Dinh) để dân
phụng tự.
Các
triều đều ban sắc phong thần là Phúc thần, đại thần và nhiều mỹ tự: Trung Hưng
tán trị dự quốc đồng hưu, Trung túc Đại vương (Chính Hòa 16 - 1695); Hiển
ứng Dực vận Đại vương (Gia Long 9 - 1810); Quang Trung đẳng thần (Khải Định 9
- 1924)…
Sử
sách nước nhà cũng đã ghi nhớ công lao của Trần Đăng Dinh với triều Lê Trung
Hưng qua Đại Việt sử ký tục biên (1676-1789) như sau: Tân
Mùi (Chính Hòa) năm thứ 12 (1691)…Mùa xuân, tháng giêng… cho… Trần
Đăng Doanh làm Thượng thư bộ Công. Mùa hạ, tháng tư, Trấn thủ Sơn Tây là
Thượng thư bộ Công Liêm Quận công Trần Đăng Doanh (Dinh) chết, được tặng Thượng
thư bộ Hộ, Thiếu phó (Triều đinh) cho Lê Thì Liêu lên thay. Đăng Doanh hầu chúa
đa lâu từ khi còn là Thế tử chưa lên ngôi, theo (chúa) đi đánh Thuận Hóa, có
công [nên] từ chân gia thần được tiến dùng. (Đăng Doanh) nói năng bàn luận rõ
ràng, dứt khoát, được chúa tin yêu. (chúa) hỏi cưới con gái của Đăng Doanh làm
chính phu nhân cho Tấn Quốc công (Trịnh Bính) (Đăng Doanh người huyện Đông
Thành)(5).
Liêm
Quận công Trần Đăng Dinh sinh 16 con trai, đều được giữ chức Hoằng tín Đại phu,
đa số được ban tước hầu và 10 con gái đều quý hiển, có cả cung tần, hoàng hậu
và làm dâu các nhà quan thần, quyền quý:
+Trưởng
tử Đăng Đệ là Nho sinh trúng thức (Hương cống), Giám sinh Quốc Tử Giám, chức
quan Hoằng tín Đại phu.
+Thứ
2 Đăng Dũng, đậu Giải nguyên, lũy trúng Hoành từ (Chế khoa do vua ngự đề chọn
người tài như Tiến sĩ), làm quan đến Hoằng tín Đại phu Thị nội văn chức, Diễn
Trạch tử.
+Thứ
3 Đăng Sĩ, Nho sinh trúng thức (Hương cống), chức quan Hoằng tín Đại phu, Anh
liệt tướng quân Cẩm y vệ, Chỉ huy sứ ty, Đô chỉ huy sứ, Khánh Dũng hầu.
+Thứ
4 Đăng Nhuận, chức Hoằng tín Đại phu, cải quản Khuông hữu, thăng Hữu Hiệu điểm,
Khoan Dũng hầu.
+Thứ
5 Đăng Tạo, chức Hoằng tín Đại phu, Trấn thủ hữu trấn cơ Hưng Hóa, Minh nghị
tướng quân, Tổng binh sứ ty Đô tổng binh sứ, Ninh Dũng nam, sau mất tặng Quang
liệt Đại vương, Tuấn lương, Dực bảo Trung hưng tôn thần.
+Thứ 6 Đăng Triều, Hoằng tín Đại phu, cải Vụ ban, sơ thụ
Phó cai quan, tước Lập Dũng hầu.
+Thứ 7 Đăng Sương, Hoằng tín Đại phu. Thứ 8 Đăng Nhiệm,
Hoằng tín Đại phu.
+Thứ 9 Đăng Phái, Hoằng tín Đại phu, cải quản nhưng nhất
đội, Phái Dũng hầu.
+Thứ 10 Đăng Tương, Nho sinh trúng thức, Hoằng tín Đại
phu, Kính Dũng hầu.
+Thứ
11 Đăng Vĩ, Hoằng tín Đại phu, Đường Dũng hầu. Thứ 12 Đăng Tuyển, Hoằng tín Đại
phu, Ưng Dũng hầu.
+Thứ
13 Đăng Đô, Hoằng tín Đại phu.
+Thứ
14 Đăng Chiêu, Hoằng tín Đại phu.
+Thứ
15 Đăng Núi, Hoằng tín Đại phu.
+Thứ 16 Đăng
Trung, Hoằng tín Đại phu, cải Điển binh, Thuần Tường hầu.
Một
nhà cha con 17 người và nhiều cháu chắt đều làm quan trong triều, thật là vinh
hiển, đúng như lời án trong gia phả họ có câu: Gẫm họ ta trâm anh dịch
thế/ Văn võ đều tương kế điển binh…
Họ
Trần Nghệ Tĩnh, từ Khai quốc công thần triều Lê - Tướng quốc Trần Nguyên Hãn và
con trai trưởng Trần Pháp Độ đã tạo dựng cho con cháu các thế hệ nối tiếp một
truyền thống tốt đẹp, yêu nước, thương dân, hiếu học, trọng nghĩa khí, nên nối
đời vinh hiển, nhiều người thành danh là danh nhân, nhân vật có công trong sự
nghiệp xây dựng, bảo vệ quê hương, đất nước. Các di tích nhà thờ Tướng công
Pháp Độ, phủ thờ Trần Đăng Dinh đã được Nhà nước vinh danh là di tích lịch sử -
văn hóa quốc gia, đều xứng đáng là nơi để con cháu cùng nhân dân ngưỡng mộ, noi
gương học tập.
Con
cháu Dòng họ Trần vẫn phát huy tốt sự nghiệp của cha ông cho đến ngày nay, tiêu
biểu như: các Tiến sĩ Trần Danh Dĩnh (1690-?, Quỳnh Diễn, Quỳnh Lưu), Trần Đình
Chu, Trần Đình Phong, Trần Huy Phác, Trần Hữu Dực; các Phó bảng Trần Nguyên
Trinh, Trần Vĩ; Tổng Bí thư Trần Phú, Anh hùng lực lượng vũ trang Trần Văn Trí;
nhiều liệt sĩ hy sinh cho Tổ quốc, nhiều quân nhân là cấp tá quân đội; nhiều
người là cử nhân, tiến sĩ, thạc sĩ… trong nhiều lĩnh vực công tác đang đóng góp
công sức hưng thịnh đất nước và xây dựng một dòng họ văn hóa truyền thống tốt
đẹp. Xin ghi lại đôi câu đối ở đền thờ Tướng công Pháp Độ để ghi nhận về truyền
thống họ Trần: Hiếu nghĩa tương truyền khai quyết hậu/ Bản chi phất thế
tự kỳ tiên. Tạm dịch: Tổ tiên hiếu nghĩa mãi mãi không
đổi/Dòng họ thịnh hưng đời đời lưu truyền./.
Đào Tam Tỉnh
Chú
thích:
(1)
Phan
Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí, T.1.
H., Giáo dục, 2006, trì 380-381.
(2),
(3) Các tài liệu: Gia tộc dòng Huyền Linh và Trần Đăng Dinh; Hồ sơ Di
tích đền Pháp Độ - Trần Quốc Duy; Trần tướng công sự trạng bị khảo.
(4) Đại
Việt sử ký toàn thư, T.3. H., Khoa học xã hội, 1998, trì 270.
(5) Đại
Việt sử ký tục biên (1676-1789), H., Hồng Bàng - TT Văn hóa Ngôn ngữ
Đông Tây, 2012, trì 35.
(6)
Tham khảo các tài liệu: Bùi Dương Lịch, Nghệ An kỳ; Cao Xuân
Dục, Đại Nam nhất thống chí, T.1; Nguyễn Q. Thắng, Nguyễn Bá
Thể, Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam; Ninh Viết Giao, Từ
điển nhân vật xứ Nghệ; Đào Tam Tỉnh, Khoa bảng Nghệ An
(1075-1919); Đinh Xuân Lâm - Trương Hữu Quỳnh, Từ điển nhân
vật lịch sử Việt Nam…